Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
354387

phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta- thực tiễn đặt ra

Đăng lúc: 16/04/2018 (GMT+7)
100%

phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta- thực tiễn đặt ra

PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở NƯỚC TA

THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Bạo lực gia đình ở Việt Nam không phải là vấn đề mới, song đang là vấn đề khá “nóng” và có chiều hướng gia tăng, mặc dù đời sống kinh tế, xã hội ngày càng phát triển, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2008. Hầu hết các vụ bạo lực gia đình hiện nay đều là bạo lực của nam giới đối với phụ nữ và trẻ em. Đây là một vấn đề xã hội bức xúc, một tệ nạn xã hội cần phải lên án.

Bạo lực gia đình là sự vi phạm quyền tự do và nhân phẩm con người, vi phạm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, làm xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Việc ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi nạn bạo lực chống lại phụ nữ đang là mối quan tâm của tất cả các quốc gia. Trong nhiều diễn đàn quốc tế, vấn đề bạo lực gia đình được các chính phủ nhìn nhận như một sự vi phạm không thể chấp nhận được đối với nhân phẩm con người, là sự vi phạm Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Ngày 17-2-1982, Công ước CEDAW được phê chuẩn, Việt Nam đã bày tỏ sự đồng tình, lên tiếng ủng hộ sự đóng góp của phụ nữ đối với hạnh phúc gia đình và sự phát triển của xã hội, đồng thời lên án mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, coi đó là sự vi phạm các nguyên tắc cơ bản về quyền bình đẳng và phẩm giá con người.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản, chính sách, pháp luật thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng nam nữ. Những nội dung cơ bản của Công ước CEDAW cũng đã được “nội luật hóa” vào trong hệ thống pháp luật quốc gia, như: Hiến pháp 1992, Bộ Luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ Luật Dân sự, Luật Bình đẳng giới...

Trước thực trạng pháp luật, các quy phạm đạo đức và dư luận xã hội ở nước ta đã không còn đủ sức điều chỉnh, ngăn chặn được những hành vi bạo lực gia đình thì Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã ra đời và có hiệu lực từ ngày 1-7-2008. Vấn đề đặt ra là làm sao đưa luật vào cuộc sống để ngăn chặn được tình trạng bạo lực gia đình đang diễn ra trong các gia đình Việt Nam hiện nay.

Hậu quả của bạo lực gia đình

Hậu quả của mỗi hành vi bạo lực gia đình đều trực tiếp hay gián tiếp tác động và ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội. Bởi nó trực tiếp gây tổn thương đến sức khoẻ và tinh thần, gây hoảng loạn, rối loạn về tâm lý, tình cảm của con người, nhất là sự phát triển nhân cách của những đứa trẻ, làm gia đình tan vỡ và ảnh hưởng xấu đến xã hội. Số liệu khảo sát điều tra xã hội học cho biết: Bạo lực gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ chiếm 91,0%, gây tổn hại về sức khoẻ, thể chất: 87,5%, gây tổn thương về tâm lý, tinh thần: 89,4%, gây tan vỡ gia đình: 89,7% và làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội: 89%. Hậu quả nói trên là hết sức nguy hại vì nó làm cho các em mất niềm tin vào các thành viên gia đình, từ đó mà chán nản học hành, dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội hoặc có những hành vi phạm pháp. Đối với những người vợ, người mẹ thì bạo lực gia đình cũng gây hậu quả nặng nề không chỉ về thể chất mà còn về tinh thần, đời sống gia đình không hạnh phúc, gia đình lục đục, luôn phải suy nghĩ lo lắng, sợ hãi và nghi ngờ, dẫn đến ly thân. Và ly hôn là khó tránh khỏi.

Những nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình

Sự tồn tại của bạo lực gia đình ở cộng đồng mà nạn nhân chủ yếu là ở nhóm phụ nữ, trẻ em nhiều khi là do sự cam chịu bất bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình, cộng thêm nhiều yếu tố về văn hoá, kinh tế - xã hội cũng góp phần duy trì tệ nạn này. Nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình là thái độ đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân về vai trò, trách nhiệm được qui về văn hoá, xã hội nhưng nhiều khi bị ngộ nhận là xuất phát từ sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ.

Có thể phân thành những nguyên nhân sau:

+ Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình do các tệ nạn xã hội mà người chồng hoặc vợ mắc phải, như nghiện rượu, sa vào cờ bạc, con cái vi phạm pháp luật hay có các hành vi lệch chuẩn. Đây là nhóm nguyên nhân được nhiều người đồng thuận nhất, bởi ai cũng thấy khi các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình thì thường dẫn đến vợ chồng lục đục, kinh tế khó khăn, suy sụp, mâu thuẫn vợ chồng gay gắt và khi đó, bạo hành đối với vợ con là điều khó tránh khỏi.

+ Sự thiếu hiểu biết pháp luật và các qui chuẩn xã hội của cả vợ chồng và các con, cũng như trình độ học vấn thấp. Do không hiểu biết pháp luật, không biết mình có những quyền gì, do vậy, người bị bạo hành không tự bảo vệ được chính bản thân mình, không đấu tranh vì lẽ phải và có thể họ còn bị phụ thuộc vào phong tục tập quán. Theo kết quả của một cuộc điều tra xã hội học, có tới 79,4% số người được hỏi cho rằng thiếu hiểu biết pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình và 72,4% cho rằng cả chồng, vợ đều thiếu hiểu biết về giới và bình đẳng giới. Cùng với tính tự ti, nhu nhược của người vợ đã dẫn đến mất dần tình yêu, tính tự chủ với chồng, con cái, thiết chế gia đình cũng vì thế càng lỏng lẻo và cuối cùng không tránh khỏi bạo lực gia đình.

+ Đời sống vợ chồng không được thoả mãn về tình dục. Tuy đây là một vấn đề tế nhị, song chúng vẫn là nguồn gốc tạo nên tình trạng bạo lực gia đình. Vợ, chồng không được thoả mãn tình dục, thường dẫn đến sự phản bội trong tình yêu và hôn nhân, chồng hoặc vợ ngoại tình, tình cảm vợ chồng sứt mẻ.

+ Việc thực thi pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình là chưa nghiêm, chưa hiệu quả. Nguyên do một phần là những nạn nhân của bạo lực gia đình cam chịu, không muốn tố cáo, không muốn “vạch áo cho người xem lưng”. Mặt khác, các vụ bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng hiện nay hình phạt còn quá nhẹ, không tương xứng với hậu quả mà nó gây ra, tính phòng ngừa răn đe còn hết sức hạn chế.

Quan điểm phòng, chống bạo lực gia đình

Phải coi bạo lực gia đình là một vấn đề xã hội cấp bách, vì nó tác động và ảnh hưởng xấu đến nhân cách, phẩm giá con người; là thiếu nhân đạo, nhân văn.

Phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của toàn dân, toàn xã hội. Phải đẩy mạnh xã hội hoá công tác phòng, chống bạo lực gia đình. 65,4% số người được hỏi khẳng định phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của toàn xã hội.

Phòng, chống bạo lực gia đình phải kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp, song lấy phòng ngừa là chính. Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, đồng thời làm tốt công tác tư vấn hoà giải. Phòng, chống bạo lực gia đình phải đi đôi với phòng, chống tệ nạn xã hội khác.

Các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình

1. Nâng cao hiệu quả của thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng xử về gia đình và bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam. Chính vì vậy, công tác thông tin - giáo dục - truyền thông về bạo lực gia đình qua tivi, đài, báo, tạp chí, các tờ rơi, tờ gấp, loa truyền thanh, tuyên truyền của cán bộ Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, các cộng tác viên dân số, qua các buổi hội họp cần tới được tất cả các nhóm công dân, nhất là các gia đình nghèo.

Truyền thông cũng cần chỉ ra nguyên nhân cơ bản của bạo lực gia đình là sự bất bình đẳng giới, là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, phân biệt địa vị, vai trò của phụ nữ và nam giới trong gia đình, vận động nam giới nói riêng và toàn xã hội nói chung hiểu biết về quyền của phụ nữ, đồng thời phải nâng cao kiến thức, nhận thức cho chị em để họ hiểu được quyền của mình để có ý thức tự bảo vệ, nâng cao địa vị, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội.

Kết quả hình ảnh cho bạo lực gia đình

2. Giáo dục pháp luật, các qui định của pháp luật về bảo đảm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em. Để pháp luật đi vào cuộc sống phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục những kiến thức pháp luật cơ bản cho người dân, như Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự”. Xây dựng quan hệ vợ chồng là quan hệ hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, “vợ chồng tôn trọng và gìn giữ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau... Cấm các hành vi ngược đãi, hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của nhau”. Điều 21 Luật Hôn nhân và gia đình quy định các biện pháp ngăn chặn và xử lý những hành vi bạo lực gia đình của chồng đối với vợ con hoặc ngược lại.

3. Nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực của người phụ nữ trong gia đình và xã hội thông qua việc tổ chức các buổi sinh hoạt, các lớp tập huấn dành riêng cho chị em phụ nữ hoặc xây dựng các câu lạc bộ và các trung tâm tư vấn về hôn nhân và gia đình cho chị em.

3. Phát triển kinh tế phải kết hợp với phát triển văn hóa, giáo dục để nâng cao trình độ dân trí nói chung, nhất là trình độ dân trí cho chị em phụ nữ khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo của mỗi địa phương, cần có chính sách ưu tiên các gia đình nghèo, khó khăn, tạo điều kiện cho chị em có công ăn việc làm, có thu nhập để khẳng định vị thế của mình trong gia đình và xã hội. Đưa tiêu chí không có bạo lực gia đình là một tiêu chí quan trọng để xem xét việc công nhận gia đình văn hoá.

5. Xây dựng các thiết chế gia đình bền vững được xem là giải pháp nội lực để phòng tránh bạo lực gia đình. Yêu cầu này đòi hỏi vai trò của các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cùng bàn bạc; tùy theo đặc điểm, truyền thống văn hóa của từng địa phương phải xây dựng được các quy chế, quy ước nhằm hạn chế những khác biệt, mâu thuẫn có thể bùng nổ thành xung đột, cùng với các gia đình có ý thức xây đắp các chuẩn mực: no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững. Đối với mỗi hộ gia đình thì vợ chồng phải biết cách ứng xử tế nhị, tôn trọng giúp đỡ nhau như kinh nghiệm ông cha ta đã đúc kết chồng giận thì vợ bớt lời hay lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, tạo không khí hoà thuận, cùng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dạy con cái. Ngăn chặn các tệ nạn xã hội là giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu quả nhất. Vì vậy đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội không chỉ tạo nên sự ổn định xã hội mà còn góp phần vào việc phòng, chống bạo lực gia đình một cách có hiệu quả.

Bộ phận tư pháp.

phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta- thực tiễn đặt ra

Đăng lúc: 16/04/2018 (GMT+7)
100%

phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở nước ta- thực tiễn đặt ra

PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở NƯỚC TA

THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Bạo lực gia đình ở Việt Nam không phải là vấn đề mới, song đang là vấn đề khá “nóng” và có chiều hướng gia tăng, mặc dù đời sống kinh tế, xã hội ngày càng phát triển, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2008. Hầu hết các vụ bạo lực gia đình hiện nay đều là bạo lực của nam giới đối với phụ nữ và trẻ em. Đây là một vấn đề xã hội bức xúc, một tệ nạn xã hội cần phải lên án.

Bạo lực gia đình là sự vi phạm quyền tự do và nhân phẩm con người, vi phạm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, làm xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Việc ngăn chặn và tiến tới đẩy lùi nạn bạo lực chống lại phụ nữ đang là mối quan tâm của tất cả các quốc gia. Trong nhiều diễn đàn quốc tế, vấn đề bạo lực gia đình được các chính phủ nhìn nhận như một sự vi phạm không thể chấp nhận được đối với nhân phẩm con người, là sự vi phạm Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW). Ngày 17-2-1982, Công ước CEDAW được phê chuẩn, Việt Nam đã bày tỏ sự đồng tình, lên tiếng ủng hộ sự đóng góp của phụ nữ đối với hạnh phúc gia đình và sự phát triển của xã hội, đồng thời lên án mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, coi đó là sự vi phạm các nguyên tắc cơ bản về quyền bình đẳng và phẩm giá con người.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản, chính sách, pháp luật thể hiện rõ nguyên tắc bình đẳng nam nữ. Những nội dung cơ bản của Công ước CEDAW cũng đã được “nội luật hóa” vào trong hệ thống pháp luật quốc gia, như: Hiến pháp 1992, Bộ Luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ Luật Dân sự, Luật Bình đẳng giới...

Trước thực trạng pháp luật, các quy phạm đạo đức và dư luận xã hội ở nước ta đã không còn đủ sức điều chỉnh, ngăn chặn được những hành vi bạo lực gia đình thì Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã ra đời và có hiệu lực từ ngày 1-7-2008. Vấn đề đặt ra là làm sao đưa luật vào cuộc sống để ngăn chặn được tình trạng bạo lực gia đình đang diễn ra trong các gia đình Việt Nam hiện nay.

Hậu quả của bạo lực gia đình

Hậu quả của mỗi hành vi bạo lực gia đình đều trực tiếp hay gián tiếp tác động và ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội. Bởi nó trực tiếp gây tổn thương đến sức khoẻ và tinh thần, gây hoảng loạn, rối loạn về tâm lý, tình cảm của con người, nhất là sự phát triển nhân cách của những đứa trẻ, làm gia đình tan vỡ và ảnh hưởng xấu đến xã hội. Số liệu khảo sát điều tra xã hội học cho biết: Bạo lực gia đình ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ chiếm 91,0%, gây tổn hại về sức khoẻ, thể chất: 87,5%, gây tổn thương về tâm lý, tinh thần: 89,4%, gây tan vỡ gia đình: 89,7% và làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội: 89%. Hậu quả nói trên là hết sức nguy hại vì nó làm cho các em mất niềm tin vào các thành viên gia đình, từ đó mà chán nản học hành, dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội hoặc có những hành vi phạm pháp. Đối với những người vợ, người mẹ thì bạo lực gia đình cũng gây hậu quả nặng nề không chỉ về thể chất mà còn về tinh thần, đời sống gia đình không hạnh phúc, gia đình lục đục, luôn phải suy nghĩ lo lắng, sợ hãi và nghi ngờ, dẫn đến ly thân. Và ly hôn là khó tránh khỏi.

Những nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình

Sự tồn tại của bạo lực gia đình ở cộng đồng mà nạn nhân chủ yếu là ở nhóm phụ nữ, trẻ em nhiều khi là do sự cam chịu bất bình đẳng của người phụ nữ trong gia đình, cộng thêm nhiều yếu tố về văn hoá, kinh tế - xã hội cũng góp phần duy trì tệ nạn này. Nguyên nhân sâu xa của bạo lực gia đình là thái độ đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân về vai trò, trách nhiệm được qui về văn hoá, xã hội nhưng nhiều khi bị ngộ nhận là xuất phát từ sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ.

Có thể phân thành những nguyên nhân sau:

+ Nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình do các tệ nạn xã hội mà người chồng hoặc vợ mắc phải, như nghiện rượu, sa vào cờ bạc, con cái vi phạm pháp luật hay có các hành vi lệch chuẩn. Đây là nhóm nguyên nhân được nhiều người đồng thuận nhất, bởi ai cũng thấy khi các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình thì thường dẫn đến vợ chồng lục đục, kinh tế khó khăn, suy sụp, mâu thuẫn vợ chồng gay gắt và khi đó, bạo hành đối với vợ con là điều khó tránh khỏi.

+ Sự thiếu hiểu biết pháp luật và các qui chuẩn xã hội của cả vợ chồng và các con, cũng như trình độ học vấn thấp. Do không hiểu biết pháp luật, không biết mình có những quyền gì, do vậy, người bị bạo hành không tự bảo vệ được chính bản thân mình, không đấu tranh vì lẽ phải và có thể họ còn bị phụ thuộc vào phong tục tập quán. Theo kết quả của một cuộc điều tra xã hội học, có tới 79,4% số người được hỏi cho rằng thiếu hiểu biết pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình và 72,4% cho rằng cả chồng, vợ đều thiếu hiểu biết về giới và bình đẳng giới. Cùng với tính tự ti, nhu nhược của người vợ đã dẫn đến mất dần tình yêu, tính tự chủ với chồng, con cái, thiết chế gia đình cũng vì thế càng lỏng lẻo và cuối cùng không tránh khỏi bạo lực gia đình.

+ Đời sống vợ chồng không được thoả mãn về tình dục. Tuy đây là một vấn đề tế nhị, song chúng vẫn là nguồn gốc tạo nên tình trạng bạo lực gia đình. Vợ, chồng không được thoả mãn tình dục, thường dẫn đến sự phản bội trong tình yêu và hôn nhân, chồng hoặc vợ ngoại tình, tình cảm vợ chồng sứt mẻ.

+ Việc thực thi pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình là chưa nghiêm, chưa hiệu quả. Nguyên do một phần là những nạn nhân của bạo lực gia đình cam chịu, không muốn tố cáo, không muốn “vạch áo cho người xem lưng”. Mặt khác, các vụ bạo lực gia đình gây hậu quả nghiêm trọng hiện nay hình phạt còn quá nhẹ, không tương xứng với hậu quả mà nó gây ra, tính phòng ngừa răn đe còn hết sức hạn chế.

Quan điểm phòng, chống bạo lực gia đình

Phải coi bạo lực gia đình là một vấn đề xã hội cấp bách, vì nó tác động và ảnh hưởng xấu đến nhân cách, phẩm giá con người; là thiếu nhân đạo, nhân văn.

Phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của toàn dân, toàn xã hội. Phải đẩy mạnh xã hội hoá công tác phòng, chống bạo lực gia đình. 65,4% số người được hỏi khẳng định phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm của toàn xã hội.

Phòng, chống bạo lực gia đình phải kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp, song lấy phòng ngừa là chính. Cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, đồng thời làm tốt công tác tư vấn hoà giải. Phòng, chống bạo lực gia đình phải đi đôi với phòng, chống tệ nạn xã hội khác.

Các giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình

1. Nâng cao hiệu quả của thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình nhằm thay đổi nhận thức, hành vi trong ứng xử về gia đình và bạo lực gia đình, góp phần tiến tới xoá bỏ bạo lực gia đình và nâng cao nhận thức về truyền thống tốt đẹp của con người, gia đình Việt Nam. Chính vì vậy, công tác thông tin - giáo dục - truyền thông về bạo lực gia đình qua tivi, đài, báo, tạp chí, các tờ rơi, tờ gấp, loa truyền thanh, tuyên truyền của cán bộ Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, các cộng tác viên dân số, qua các buổi hội họp cần tới được tất cả các nhóm công dân, nhất là các gia đình nghèo.

Truyền thông cũng cần chỉ ra nguyên nhân cơ bản của bạo lực gia đình là sự bất bình đẳng giới, là tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, phân biệt địa vị, vai trò của phụ nữ và nam giới trong gia đình, vận động nam giới nói riêng và toàn xã hội nói chung hiểu biết về quyền của phụ nữ, đồng thời phải nâng cao kiến thức, nhận thức cho chị em để họ hiểu được quyền của mình để có ý thức tự bảo vệ, nâng cao địa vị, vai trò của mình trong gia đình và ngoài xã hội.

Kết quả hình ảnh cho bạo lực gia đình

2. Giáo dục pháp luật, các qui định của pháp luật về bảo đảm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em. Để pháp luật đi vào cuộc sống phải tuyên truyền, phổ biến, giáo dục những kiến thức pháp luật cơ bản cho người dân, như Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự”. Xây dựng quan hệ vợ chồng là quan hệ hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, “vợ chồng tôn trọng và gìn giữ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau... Cấm các hành vi ngược đãi, hành vi xúc phạm danh dự, uy tín của nhau”. Điều 21 Luật Hôn nhân và gia đình quy định các biện pháp ngăn chặn và xử lý những hành vi bạo lực gia đình của chồng đối với vợ con hoặc ngược lại.

3. Nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực của người phụ nữ trong gia đình và xã hội thông qua việc tổ chức các buổi sinh hoạt, các lớp tập huấn dành riêng cho chị em phụ nữ hoặc xây dựng các câu lạc bộ và các trung tâm tư vấn về hôn nhân và gia đình cho chị em.

3. Phát triển kinh tế phải kết hợp với phát triển văn hóa, giáo dục để nâng cao trình độ dân trí nói chung, nhất là trình độ dân trí cho chị em phụ nữ khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trong chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo của mỗi địa phương, cần có chính sách ưu tiên các gia đình nghèo, khó khăn, tạo điều kiện cho chị em có công ăn việc làm, có thu nhập để khẳng định vị thế của mình trong gia đình và xã hội. Đưa tiêu chí không có bạo lực gia đình là một tiêu chí quan trọng để xem xét việc công nhận gia đình văn hoá.

5. Xây dựng các thiết chế gia đình bền vững được xem là giải pháp nội lực để phòng tránh bạo lực gia đình. Yêu cầu này đòi hỏi vai trò của các tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cùng bàn bạc; tùy theo đặc điểm, truyền thống văn hóa của từng địa phương phải xây dựng được các quy chế, quy ước nhằm hạn chế những khác biệt, mâu thuẫn có thể bùng nổ thành xung đột, cùng với các gia đình có ý thức xây đắp các chuẩn mực: no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và phát triển bền vững. Đối với mỗi hộ gia đình thì vợ chồng phải biết cách ứng xử tế nhị, tôn trọng giúp đỡ nhau như kinh nghiệm ông cha ta đã đúc kết chồng giận thì vợ bớt lời hay lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau, tạo không khí hoà thuận, cùng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dạy con cái. Ngăn chặn các tệ nạn xã hội là giải pháp phòng, chống bạo lực gia đình có hiệu quả nhất. Vì vậy đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội không chỉ tạo nên sự ổn định xã hội mà còn góp phần vào việc phòng, chống bạo lực gia đình một cách có hiệu quả.

Bộ phận tư pháp.

CÔNG KHAI TIẾN ĐỘ GIẢI QUYẾT TTHC

CHI TIẾT